Ngày 7/11/2003, Tổng Giám đốc UNESCO Kiochiro Matsuura chính thức công bố Nhã nhạc Huế được ghi tên là 1/28 kiệt tác di sản văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại trong buổi lễ được tổ chức tại Paris, Pháp. Đây cũng là di sản phi vật thể đầu tiên của Việt Nam được công nhận vào danh mục này.
Nhã nhạc Huế - Di sản văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại Nhã nhạc Huế (Âm nhạc cung đình Việt Nam) có từ thế kỷ thứ 13, nhưng chỉ đạt đến độ mức điêu luyện tại cung đình Huế dưới triều Nguyễn (1802 - 1945). Các vị vua Nguyễn coi Nhã nhạc là âm nhạc chính thức của cung đình. Dưới triều Nguyễn, Nhã nhạc đã trở thành một phần thiết yếu của quá trình nghi lễ, loại hình nghệ thuật này được trình diễn trong toàn bộ thời gian của gần 100 buổi lễ khác nhau mỗi năm. Phong phú về nội dung, Nhã nhạc đã được xem như một phương tiện liên lạc, bày tỏ tôn kính đến các vị thần linh và bậc đế vương. Ngoài ra, nó còn như là một phương tiện cho việc truyền đạt những ý tưởng mang tính triết lý và những khía cạnh về vũ trụ của người Việt Nam. Thuật ngữ Nhã nhạc không chỉ chứa đựng hệ thống âm nhạc cung đình dựa trên thang ngũ âm mà còn bao hàm cả sự trình diễn thực tế; được đặc trưng bởi sự đa dạng của các loại nhạc cụ và chỉ được biểu diễn vào những dịp nào đó, với các ca công và vũ công riêng. Trống đóng vai trò chủ đạo trong các dàn nhạc cung đình gồm nhiều nhạc công và mỗi nhạc công phải có sự tập trung cao để theo được mạch tất cả giai đoạn lễ nghi kéo dài. Những biến cố diễn ra ở Việt Nam trong thế kỷ 20, đặc biệt là sự sụp đổ của Vương triều Nguyễn và những thập kỷ chiến tranh liên miên, đã đe dọa nghiêm trọng sự sống còn của Nhã nhạc. Bị mất đi ngữ cảnh cung đình, loại hình âm nhạc này đã mất đi một phần chức năng xã hội nguyên thủy của nó. Với sự quan tâm, hỗ trợ của Chính phủ và cộng đồng địa phương, một vài nhạc công xưa của cung đình còn sống đang cố gắng làm sống lại truyền thống này và truyền đạt những kỹ năng biểu diễn Nhã nhạc cho thế hệ trẻ. Một số hình thức Nhã nhạc còn lại trong các tế lễ và lễ hội dân gian vẫn là một nguồn cảm hứng cho âm nhạc Việt Nam đương đại. Sau khi được tôn vinh là Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại, theo khuyến nghị của UNESCO, Cục Di sản Văn hóa - Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã phối hợp với Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô Huế tổ chức lớp tập huấn giới thiệu những nghệ nhân là “báu vật nhân văn sống” của Huế, tiến tới thiết lập một hệ thống "báu vật nhân văn sống" của Việt Nam. Sự đóng góp của những nghệ nhân ấy thời gian qua đã góp phần làm giàu giá trị di sản văn hóa Huế. Những người góp phần giữ “hồn” cho Nhã nhạc Huế Đặc điểm của Nhã nhạc Huế (hay còn gọi là Nhã nhạc cung đình Huế) là truyền nghề, trong khi những “Báu vật nhân văn sống” đều đã lớn tuổi. Năm 2010, Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô Huế đã mời anh em cụ Lữ Hữu Thi và Lữ Hữu Cử (thời điểm đó cụ Thi 92 tuổi và cụ Cử 86 tuổi - nay cả hai cụ đã mất) là hai người cuối cùng tham gia trong đội nhạc Hòa Thanh của triều Nguyễn cùng phục dựng lại vốn âm nhạc cung đình. Dưới Triều Nguyễn, đội nhạc Hòa Thanh trong cung đình (còn gọi là tiểu nhạc) có 10 người, gồm những người chơi nhạc cự phách: Lê Văn Hòa đánh trống bảng, Đinh Đó đàn tỳ, Trần Lư đàn tam, Nguyễn Thiện đàn nguyệt, Đinh Khai đàn nhị, hai anh em Lữ Hữu Thi và Lữ Hữu Cử... Khác với người anh đứng tên trong đội nhạc Hòa Thanh từ rất sớm, cụ Cử đến với đội nhạc như một cơ duyên. Năm 14 tuổi, cụ tham gia Lễ khánh thành Hội Phật học tại Đà Nẵng, có lúc đăng đàn thổi một mình. Cụ chơi được nhiều loại nhạc cụ như: kèn, sáo (địch), đàn nhị... Năm 17 tuổi, trong một lần đến chơi phục vụ nội thân nhà vua ở cung An Định, tiếng đàn, tiếng sáo của cụ qua các vở Tam Quốc, Lưu Bình Dương Lễ... đã thu phục được lòng người, đồng thời chính thức đưa cụ đến với đội nhạc Hòa Thanh và gắn bó với đội nhạc cung đình cho đến ngày Bảo Đại thoái vị. Đội nhạc Hòa Thanh có các nhạc cụ dân tộc như đàn tỳ, tam, nguyệt, nhị, kèn, sáo và các bộ gõ như trống, bảng... chỉ phục vụ nhà vua trong các dịp đăng quang, vạn thọ, triệu miếu, chúc tuổi đức từ cung (mẹ vua Bảo Đại)... Cụ Cử là người đa tài, vì thế dưới thời Bảo Đại, khi văn hóa phương Tây bắt đầu xâm nhập vào nước ta, cụ là người thổi được kèn Tây (Sexsophone, Clarinet, Sáo bạc Flute) nên được triều đình rất trọng dụng. Còn cụ Lữ Hữu Thi nổi bật với cây đàn nhị và chiếc kèn bóp. Tiếng đàn của cụ khi réo rắt, ai oán, có lúc lại bay bổng... Gia đình cụ còn có mấy đời tự làm lấy các nhạc cụ truyền thống như đàn nhị, kèn bóp, tiếng vang mà dịu... Trước khi mất, trong mấy năm qua, nhất là sau khi Nhã nhạc Huế (Nhạc cung đình Việt Nam) được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại, những nhạc công cuối cùng trong đội nhạc triều Nguyễn đã nỗ lực giúp Nhà hát Duyệt Thị Đường (Đại Nội - Huế) phục dựng, bảo tồn các giá trị truyền thống của loại âm nhạc cung đình. Cụ Cử hơi nặng tai, do vậy, việc truyền dạy nghề của cụ có phần hạn chế. Cụ Thi, hàng tuần vào các ngày chẵn cụ nhờ con cháu chở vào nhà hát truyền nghề cho các diễn viên, nhạc công của Nhà hát Duyệt Thị Đường thuộc Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô Huế. Cụ Lữ Hữu Thi còn nhớ và biểu diễn thành thạo tới 20 bài nhạc lễ cung đình. Ai từng có dịp gặp cụ Thi, được nghe, xem cụ đàn ca, mới thấy hết ngọn lửa đam mê nghệ thuật vẫn cháy trong tâm hồn người nhạc công cuối cùng của triều Nguyễn. Nhà cụ nghèo thế nhưng khi cụ còn sống, chúng tôi đến thăm, hỏi cụ về suy nghĩ của mình, cụ chỉ ước muốn Nhà hát tạo điều kiện để cụ sớm truyền lại bài “Ngũ lôi nữ nhạc”, đây là bài ứng tiếp mà triều đình thường dùng khi có khách quý, được như vậy khi nhắm mắt, cụ cũng mãn nguyện. Cụ lý giải “Đã mang lấy kiếp cầm ca thì mấy ai màng đến sang hèn” - có lẽ, cái khí phách ấy đã giúp cụ sống thanh thản suốt cuộc đời. Ông Trương Tuấn Hải, Đạo diễn sân khấu, Giám đốc Nhà hát Nghệ thuật cung đình Huế ( Nhà hát Duyệt Thị Đường) cho biết, cụ Cử và cụ Thi vừa góp công bảo tồn, phục dựng thành công các bài “thài” như Trầm Hương (An thần) một trong 8 bài nhạc lễ trong Lễ tế đàn Nam Giao, trong đó có đoạn ca từ sang trọng và rất khó như: Long nghi cáo bị/Nhạc chương đại thần/Tư văn dĩ phước/Minh đức duy hinh... Hiện nay, Nhà hát Nghệ thuật cung đình Huế đã xây dựng được đội ngũ gồm 90 diễn viên và nhạc công, tổ chức biểu diễn liên tục mỗi ngày 4 suất phục vụ khách tham quan, du lịch. Kết quả này có sự đóng góp rất lớn của hai nhạc công cuối cùng trong đội nhạc cung đình triều Nguyễn còn lại trên đất Cố đô. Nghệ nhân Trần Kích vừa qua đời (thọ 96 tuổi) là người từng rất đam mê với nghệ thuật Nhã nhạc. Cụ đam mê loại nhạc này, một phần do ảnh hưởng rất lớn từ cụ thân sinh ông và điều đặc biệt đến khi đi học, tiếng đàn, sáo của cụ Ưng Thiều, một đốc học của trường làng lúc bấy giờ đã cuốn hút cụ. Rồi như một định mệnh, tiếng đàn, tiếng sáo ấy theo cụ cho đến tận cuối đời. Những năm đầu, học nhạc đối với ông là thú vui để chơi, sau là một nghề để mưu sinh. Những gia đình khá giả quanh vùng đã từng thuê cụ về dạy cho con cái trong nhà. Lúc cụ đi dạy ở Hà Trừ (Phú Vang), lúc về dạy ở Truồi (Phú Lộc). Sau này, cụ từng tham gia Đội nhạc cung đình Huế, vào biểu diễn Nhã nhạc trong Đại Nội phục vụ cung đình. Nghệ nhân Trần Kích chơi thành thạo 7 loại nhạc cụ, gồm nhị, nguyệt, tỳ, bầu, sáo... Với cụ, âm thanh réo rắt của cây đàn Huế có sức thu hút mãnh liệt, thể hiện được nét sâu lắng của giai điệu nhạc Huế. Cụ tham gia chơi nhạc cho cả đại nhạc, tiểu nhạc, nhạc tuồng Huế, nhạc Phật, nhạc múa cung đình, nhạc đệm cho ca Huế. Cụ còn tự làm những cây kèn, cây đàn nhị độc đáo của Huế, để sử dụng và cung cấp cho học trò. Cây đàn nhị ở Huế khác với các nơi khác ở chỗ lấy cung bậc mang âm sắc riêng biệt. Ngón đàn của cụ, nhất là đàn nhị, đàn bầu và hơi kèn trau chuốt, sang trọng đã mê hoặc bao người. Ngay từ năm 1962, khi Trường nhạc Huế được thành lập, nghệ nhân Trần Kích đã có tên trong danh sách những người dạy nhạc cho trường. Qua hai chế độ, liên tục cho đến năm 1988, tức 13 năm sau ngày giải phóng, cụ mới xin nghỉ hưu và sau này vẫn tiếp tục dạy theo hợp đồng cho Trường Nhạc Huế. Nhiều thế hệ học trò từng được cụ truyền dạy nghề, nay thành danh không kể hết. Nhiều người trong số họ trở thành các nhà quản lý các đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp, như các anh Đại Dũng, Tiến Dũng (Đoàn Nghệ thuật truyền thống Huế) hay Trọng Nghĩa, Hữu Lai ở các đoàn ca kịch Đà Lạt, Quy Nhơn. Nhã nhạc có yếu tố truyền khẩu là chủ yếu do đó muốn lưu giữ được loại hình nghệ thuật này các nghệ nhân cao tuổi phải vừa hướng dẫn vừa chỉnh đốn vừa từng bước truyền nghề cho các thế hệ. Cụ Trần Kích đã nghiên cứu cách ký âm và ứng dụng vào việc ghi chép các bài bản ca nhạc cung đình Huế. Cụ đã ký âm hoàn chỉnh, góp phần ghi lại được 30 bài bản về Đại nhạc và Tiểu nhạc. Khác với các nghệ nhân cùng thời, cụ Kích không chỉ dạy học trò bằng cách truyền ngón nghề, kỹ thuật nhấn nhá, rung, vỗ, luyến láy mà còn sử dụng bài bản ký âm để bảo tồn, lưu giữ và dạy nhạc truyền thống Huế. Hiện người con trai duy nhất của cụ là nhạc sĩ Trần Thảo đã nối nghiệp cha chơi được các loại sáo, kèn, nguyệt, nhị, bầu, trống... và trở thành giảng viên của Trường Đại học Nghệ thuật Huế. Bảo tồn, phát huy giá trị Nhã nhạc Huế Nhã nhạc Huế, ngoài yếu tố nội lực còn được “tiếp sức” trong dự án “Bảo tồn và phát huy những giá trị Nhã nhạc Huế (Nhạc Cung đình Việt Nam)”. Theo đó, UNESCO thông qua Quỹ ủy thác Nhật Bản đã tài trợ kinh phí 154.900 USD cùng với nguồn đối ứng từ Chính phủ Việt Nam là 190.000 USD để bảo tồn và phát huy những giá trị của Nhã nhạc như: Tổ chức tập huấn nhằm nâng cao phương pháp luận về nghiên cứu, lưu trữ cho 10 cán bộ; tuyển sinh và truyền dạy nghề theo kiểu truyền thống cho 20 nhạc công Nhã nhạc (trong đó có 18 nhạc công được tuyển vào làm việc tại Nhà hát Nghệ thuật truyền thống cung đình Huế). Những người thực hiện Dự án còn tập trung nghiên cứu, sưu tầm, lưu trữ và phục hồi bài bản nhã nhạc tiêu biểu, như Thái Bình cổ nhạc, các bản ca Thài trong lễ tế Nam Giao; chuyển biên các bài bản Nhã nhạc; lập hồ sơ các nghệ nhân tiêu biểu là những “báu vật nhân văn sống”. Đặc biệt, Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô Huế còn phối hợp với nhà nghiên cứu Trịnh Bách phục chế trang phục Nhã nhạc Huế gồm: 15 áo mão Đại nhạc, 15 áo mão Tiểu nhạc, 64 áo Giao lĩnh Bát dật Văn, 64 Trấn thủ Bát dật Võ... Âm nhạc cung đình Huế càng có giá trị hơn khi UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại. Trong hơn 13 năm qua, Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô Huế đã sưu tầm, nghiên cứu và bảo tồn được 10 nhạc chương trong lễ Tế Giao, 9 nhạc chương trong lễ Tế Miếu, 5 nhạc khúc trong lễ Đoan Dương, Vạn Thọ và Tết Nguyên đán, 40 nhạc khúc trong diễn tấu với đội Tiểu nhạc, 14 nhạc khúc kèn dùng trong Đại nhạc, 10 nhạc khúc diễn tấu khi có Vua ngự. Nhiều tiết mục đã được Nhà hát Duyệt Thị Đường dàn dựng và biểu diễn như: Trống Thái Bình, Tam luân cửu chuyển (đại nhạc); Phú lục dịch, Kim tiền (tiểu nhạc); Vũ phiến, Lục cúng hoa đăng (múa) và nhiều trích đoạn tuồng cổ như Kỷ Lan Anh, Ôn Đình chém Tá. Giám đốc Nhà hát Duyệt Thị Đường Trương Tuấn Hải cho biết, có 15 điệu múa cung đình đã được biên soạn; đồng thời, phục hồi được một số điệu múa khác như: Trình tường tập khánh, Nữ tướng xuất quân, Lân mẫu xuất lân nhi, Song phụng, Long hổ hội. Nhà hát còn dàn dựng được 13 điệu múa nâng cao như: Huyện Trân, Lộng Điệp, Xẩm Huế, Phách nhịp du xuân. Nhà hát Duyệt Thị Đường (được xây dựng cách đây 200 năm) tuy mới được trùng tu đưa vào sử dụng nhưng đã kế thừa lịch sử, tiếp tục khai thác, phục hồi những tác phẩm tiêu biểu có khả năng bị thất truyền, nhất là Nhạc lễ cung đình Huế để đưa Nhã nhạc Huế, một loại hình âm nhạc chốn cung đình đến với công chúng. Những thành quả trên có một phần đóng góp không nhỏ của các nghệ nhân – “Những báu vật nhân văn”, những người góp phần giữ “hồn” cho Nhã nhạc Huế… |
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn